Vướng mắc trong triển khai thực hiện Nghị định 23 của Chính phủ về chứng thực
Nghị định 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (gọi tắt là Nghị định 23) có hiệu lực từ ngày 10-4-2015 đã góp phần không nhỏ trong việc cải cách thủ tục hành chính, giảm bớt phiền hà cho người dân. Tuy nhiên, sau hơn 1 năm triển khai việc thực hiện nghị định đã bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ.
Bà Nguyễn Thị Biển, Trưởng Phòng Bổ trợ tư pháp (Sở Tư pháp Thanh Hóa) cho biết: Nghị định 23 của Chính phủ ra đời thay thế cho Nghị định 79 trước đây góp phần rút ngắn thời gian thực hiện chứng thực, tăng thẩm quyền cho UBND cấp xã, đơn giản thủ tục... đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi yêu cầu chứng thực hoặc thực hiện các hợp đồng, giao dịch dân sự, nhất là đối với người dân ở vùng sâu, vùng xa, những nơi chưa có phòng hoặc văn phòng công chứng.
Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện Nghị định 23, bộc lộ những vướng mắc đó là: Nghị định 23 quy định chỉ thực hiện một thủ tục chứng thực chung về hợp đồng, giao dịch, không quy định các thủ tục riêng. Điểm mới này đã đảm bảo cải cách hành chính theo hướng phân cấp, giảm nhiều loại giấy tờ trong thủ tục chứng thực. Khi thực hiện hợp đồng, giao dịch, người dân chỉ cần có chứng minh nhân dân, hộ chiếu của các bên, dự thảo hợp đồng, giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng là đủ. Chính vì sự quá đơn giản trong thủ tục nên trên thực tế, các cơ quan chứng thực đã quy định thêm một số loại giấy tờ khác, như chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến thừa kế, cán bộ chứng thực yêu cầu phải có giấy khai sinh, hộ khẩu... để chứng minh quan hệ với người để lại di sản. Nhưng, quy định thêm này lại trái với tinh thần của Nghị định 23. Thêm nữa, Nghị định 23 quy định chứng thực bản sao từ bản chính thì không lưu trữ. Tuy nhiên, thực tế lại phát sinh trường hợp bản sao đã được chứng thực nhưng người yêu cầu chứng thực có hành vi gian dối là sửa chữa bản sao sau khi đã được chứng thực. Nếu không lưu trữ bản sao thì cơ quan thực hiện chứng thực lại không có cơ sở để đối chiếu khi có tranh chấp, sai sót xảy ra... Bên cạnh đó, hiện nay, các loại giấy tờ được làm giả ngày càng tinh vi nên người thực hiện chứng thực rất khó nhận biết đâu là giấy tờ giả, đâu là giấy tờ thật. Nguy cơ này càng gia tăng khi gặp phải các loại giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp. Do vậy, cần phải có cơ chế hoặc giải pháp thiết thực để ngăn ngừa vấn đề này.
Hay như việc chứng thực chữ ký, nếu xét về mặt bản chất, chứng thực chữ ký theo Nghị định 23 chỉ nhằm xác nhận, xác thực là người yêu cầu chứng thực chính là người đã ký chữ ký đó, tức là xác nhận về hình thức; còn nội dung giấy tờ, văn bản thì do người yêu cầu chứng thực chữ ký chịu trách nhiệm. Tại Khoản 3 Điều 25 Nghị định 23 quy định: “Không được chứng thực chữ ký nếu giấy tờ, văn bản mà người yêu cầu chứng thực ký vào có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội, tuyên truyền, kích động chiến tranh, chống chế độ XHCN Việt Nam; xuyên tạc lịch sử dân tộc Việt Nam; xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức; vi phạm quyền công dân”. Quy định này sẽ không phát sinh vướng mắc, nếu giấy tờ, văn bản mà người yêu cầu chứng thực sẽ ký vào được lập bằng tiếng Việt. Tuy nhiên, nếu giấy tờ, văn bản đó được lập bằng tiếng nước ngoài thì người thực hiện chứng thực khó có thể hiểu được nội dung của giấy tờ, văn bản đó để giải quyết hay từ chối chứng thực... Chính vì vậy, nếu không có hướng xử lý tốt vấn đề này thì người dân lại phải tốn kém thêm về thời gian và chi phí do phải tìm người dịch các văn bản này rồi mới mang đi chứng thực chữ ký và cơ quan thực hiện chứng thực khi có bản dịch thì mới dám tự tin để chứng thực chữ ký đối với các loại văn bản giấy tờ được lập bằng tiếng nước ngoài...
Có thể nói, việc Chính phủ ban hành Nghị định số 23 với những quy định rõ ràng, cụ thể và đơn giản sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, tổ chức khi có yêu cầu chứng thực cũng như người thực hiện chứng thực, qua đó thúc đẩy sự phát triển các giao dịch dân sự. Để Nghị định 23 thực sự đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả cao, thiết nghĩ, các sở, ngành liên quan cần tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ công chức tư pháp, hộ tịch các cấp góp phần tham mưu, thực hiện công tác chứng thực đúng quy định, hiệu quả, hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra.
Nguồn "Báo Thanh Hóa điện tử"
Tin cùng chuyên mục
-
Ngày Pháp luật Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
09/11/2024 00:00:00 -
BCH quân sự thành phố: Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật năm 2024
07/11/2024 00:00:00 -
Hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam 2024
07/11/2024 00:00:00 -
Hội nghị triển khai, tuyên truyền Luật Đất đai và các Nghị định hướng dẫn thi hành
05/11/2024 00:00:00
Vướng mắc trong triển khai thực hiện Nghị định 23 của Chính phủ về chứng thực
Nghị định 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (gọi tắt là Nghị định 23) có hiệu lực từ ngày 10-4-2015 đã góp phần không nhỏ trong việc cải cách thủ tục hành chính, giảm bớt phiền hà cho người dân. Tuy nhiên, sau hơn 1 năm triển khai việc thực hiện nghị định đã bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ.
Bà Nguyễn Thị Biển, Trưởng Phòng Bổ trợ tư pháp (Sở Tư pháp Thanh Hóa) cho biết: Nghị định 23 của Chính phủ ra đời thay thế cho Nghị định 79 trước đây góp phần rút ngắn thời gian thực hiện chứng thực, tăng thẩm quyền cho UBND cấp xã, đơn giản thủ tục... đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi yêu cầu chứng thực hoặc thực hiện các hợp đồng, giao dịch dân sự, nhất là đối với người dân ở vùng sâu, vùng xa, những nơi chưa có phòng hoặc văn phòng công chứng.
Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện Nghị định 23, bộc lộ những vướng mắc đó là: Nghị định 23 quy định chỉ thực hiện một thủ tục chứng thực chung về hợp đồng, giao dịch, không quy định các thủ tục riêng. Điểm mới này đã đảm bảo cải cách hành chính theo hướng phân cấp, giảm nhiều loại giấy tờ trong thủ tục chứng thực. Khi thực hiện hợp đồng, giao dịch, người dân chỉ cần có chứng minh nhân dân, hộ chiếu của các bên, dự thảo hợp đồng, giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng là đủ. Chính vì sự quá đơn giản trong thủ tục nên trên thực tế, các cơ quan chứng thực đã quy định thêm một số loại giấy tờ khác, như chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến thừa kế, cán bộ chứng thực yêu cầu phải có giấy khai sinh, hộ khẩu... để chứng minh quan hệ với người để lại di sản. Nhưng, quy định thêm này lại trái với tinh thần của Nghị định 23. Thêm nữa, Nghị định 23 quy định chứng thực bản sao từ bản chính thì không lưu trữ. Tuy nhiên, thực tế lại phát sinh trường hợp bản sao đã được chứng thực nhưng người yêu cầu chứng thực có hành vi gian dối là sửa chữa bản sao sau khi đã được chứng thực. Nếu không lưu trữ bản sao thì cơ quan thực hiện chứng thực lại không có cơ sở để đối chiếu khi có tranh chấp, sai sót xảy ra... Bên cạnh đó, hiện nay, các loại giấy tờ được làm giả ngày càng tinh vi nên người thực hiện chứng thực rất khó nhận biết đâu là giấy tờ giả, đâu là giấy tờ thật. Nguy cơ này càng gia tăng khi gặp phải các loại giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp. Do vậy, cần phải có cơ chế hoặc giải pháp thiết thực để ngăn ngừa vấn đề này.
Hay như việc chứng thực chữ ký, nếu xét về mặt bản chất, chứng thực chữ ký theo Nghị định 23 chỉ nhằm xác nhận, xác thực là người yêu cầu chứng thực chính là người đã ký chữ ký đó, tức là xác nhận về hình thức; còn nội dung giấy tờ, văn bản thì do người yêu cầu chứng thực chữ ký chịu trách nhiệm. Tại Khoản 3 Điều 25 Nghị định 23 quy định: “Không được chứng thực chữ ký nếu giấy tờ, văn bản mà người yêu cầu chứng thực ký vào có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội, tuyên truyền, kích động chiến tranh, chống chế độ XHCN Việt Nam; xuyên tạc lịch sử dân tộc Việt Nam; xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức; vi phạm quyền công dân”. Quy định này sẽ không phát sinh vướng mắc, nếu giấy tờ, văn bản mà người yêu cầu chứng thực sẽ ký vào được lập bằng tiếng Việt. Tuy nhiên, nếu giấy tờ, văn bản đó được lập bằng tiếng nước ngoài thì người thực hiện chứng thực khó có thể hiểu được nội dung của giấy tờ, văn bản đó để giải quyết hay từ chối chứng thực... Chính vì vậy, nếu không có hướng xử lý tốt vấn đề này thì người dân lại phải tốn kém thêm về thời gian và chi phí do phải tìm người dịch các văn bản này rồi mới mang đi chứng thực chữ ký và cơ quan thực hiện chứng thực khi có bản dịch thì mới dám tự tin để chứng thực chữ ký đối với các loại văn bản giấy tờ được lập bằng tiếng nước ngoài...
Có thể nói, việc Chính phủ ban hành Nghị định số 23 với những quy định rõ ràng, cụ thể và đơn giản sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, tổ chức khi có yêu cầu chứng thực cũng như người thực hiện chứng thực, qua đó thúc đẩy sự phát triển các giao dịch dân sự. Để Nghị định 23 thực sự đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả cao, thiết nghĩ, các sở, ngành liên quan cần tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ công chức tư pháp, hộ tịch các cấp góp phần tham mưu, thực hiện công tác chứng thực đúng quy định, hiệu quả, hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra.
Nguồn "Báo Thanh Hóa điện tử"